banner

[Rule] Rules  [Home] Main Forum  [Portal] Portal  
[Members] Member Listing  [Statistics] Statistics  [Search] Search  [Reading Room] Reading Room 
[Register] Register  
[Login] Loginhttp  | https  ]
 
Messages posted by: tranhoa1989  XML
Profile for tranhoa1989 Messages posted by tranhoa1989 [ number of posts not being displayed on this page: 0 ]
 
Dù đã xóa hết mọi cookie trình duyệt và thực hiện kiểm tra phần mềm gián điệp (cũng như phần mềm quảng cáo) cho hệ thống nhưng bạn vẫn cảm giác có ai đó đang "theo dõi" mình trong quá trình lướt web. Thủ phạm có thể chính là địa chỉ IP của máy tính mà bạn đang sử dụng để kết nối Internet.

Về nguyên tắc, để "phúc đáp" những nội dung được yêu cầu cho một trình duyệt máy khách thì máy chủ dịch vụ web (web server) cần biết chính xác trình duyệt này đang ở đâu, ví dụ là từ địa chỉ 58.186.24.58 chẳng hạn. Không những thế, một vài web server còn có khả năng nhận biết thành phố nơi bạn sinh sống, tên nhà cung cấp dịch vụ và loại kết nối Internet mà bạn đang sử dụng, nhiều thông tin hơn những gì cookie khai thác được. Bạn có thể kiểm tra địa chỉ IP của máy tính của mình tại các website , hay .

GIẢ DANH TRÊN MẠNG




Thật may, công cụ miễn phí Tor () có thể giúp bạn bịt kín "lỗ hổng" trên. Tor có khả năng giấu đi thông tin thật về địa chỉ IP có trong phần header của mỗi gói dữ liệu đi ra khỏi máy tính của bạn, bằng cách chuyển gói dữ liệu qua một mạng máy tính đặc biệt gọi là "onion routers". Tuy nhiên, cái giá phải trả để có thể trở thành "nặc danh" là bạn phải duyệt web với tốc độ chậm hơn do việc chuyển dữ liệu từ máy chủ này sang máy chủ khác thường tốn nhiều thời gian. Nhưng bù lại, Tor thể hiện được sự vượt trội so với các dịch vụ "giả lập" địa chỉ IP khác là có khả năng hỗ trợ thêm các tiện ích gửi nhận tin nhắn Instant Message bên cạnh Internet Explorer, Firefox, Thunderbird, Outlook và Eudora.

Trước khi có thể sử dụng Tor, bạn cần tải về và thực hiện cài đặt một tiện ích nhỏ có tên là Privoxy (miễn phí, ). Một khi đã cài đặt xong, khởi chạy tiện ích này và bạn sẽ thấy trên khay hệ thống xuất hiện một biểu tượng màu xanh có chữ P bên trong. Hãy nhấn phải chuột lên biểu tượng đó và chọn trình đơn Edit/Main Configuration. Trong phần nội dung của tập tin văn bản được mở ra, bạn bổ sung dòng thông số forward-socks4a / localhost:9050 . vào phần đầu của văn bản (lưu ý là có dấu chấm ở cuối câu), sau đó lưu lại tập tin cấu hình này. Thoát và khởi động lại Privoxy.

Sau khi đã cài đặt và cấu hình xong Tor cũng như Privoxy, bạn cũng cần cấu hình lại các ứng dụng để sử dụng chúng. Với Internet Explorer, bạn mở trình đơn Tools.Internet Options. Ở thẻ Connections, bạn chọn Lan Settings, đánh dấu tùy chọn "Use a proxy server for your LAN (These settings will not apply to dial-up or VPN connections" rồi tiếp đến nhấn nút Advanced. Trong hộp thoại Proxy Settings, ở phương thức HTTP gõ vào giá trị localhost ứng với mục Proxy Address to use và 8118 ứng với mục Port, đánh dấu tùy chọn "Use the same proxy server for all protocol". Sau đó đóng tất cả hộp thoại lại.





Với Mozilla, bạn mở trình đơn Edit.Preferences.Advanced.Proxies; với Opera là Tools.Preferences.Network.Proxy Servers, và thực hiện cấu hình tương tự như trong IE.

Khi đã cấu hình trình duyệt xong, bạn hãy truy cập lại 1 trong 3 website có khả năng hiển thị địa chỉ IP được giới thiệu ở trên để kiểm tra sự thay đổi.

Mạng Tor dựa vào sự tự nguyện tham gia để cải thiện băng thông. Càng nhiều người dùng cấu hình máy tính cá nhân để làm máy chủ (server) thì mạng Tor sẽ hoạt động nhanh hơn. Nếu đang dùng một đường truyền có băng thông mỗi chiều là 20 kilobyte/giây thì bạn có thể thiết lập máy tính của mình thành một máy chủ Tor. Có nhiều tính năng giúp việc cấu hình máy chủ Tor dễ dàng và thuận tiện đi kèm các công cụ đánh giá giới hạn băng thông, thiết lập quyền hạn để tránh sự "hào phóng" của mình bị lạm dụng. Phần mềm cũng hỗ trợ địa chỉ IP động. Bạn đến địa chỉ để có những hướng dẫn cụ thể.

CHUYỂN ĐỔI DỄ DÀNG TRÊN FIREFOX

Bạn có thể thiết lập để Firefox sử dụng một địa chỉ IP "ảo" khi nối mạng bằng cách áp dụng Tor. Trong cửa sổ Firefox, chọn Tools.Options, tại thẻ General bạn nhấn vào nút Connection Settings. Sau đó, trong hộp thoại, bạn đánh dấu tùy chọn "Manual proxy configuration và nhập vào thông số local như trong IE.




Ngoài ra, bạn có thể tải về tiện ích bổ sung SwitchProxy để có thể nhanh chóng chuyển đổi giữa việc áp dụng hay không áp dụng Tor cho trình duyệt này. Từ giao diện chính của Firefox, chọn Tools.Extensions, nhấn vào liên kết More Extensions. Trình duyệt sẽ mở trang web Mozilla Update, ở phía bên trái bạn sẽ thấy danh mục nhóm chức năng (category) của các tiện ích bổ sung. Nhấn chuột vào mục Privacy and Security, tìm phần giới thiệu tiện ích SwitchProxy Tools. Một khi đã tìm thấy chọn được tính năng cần thiết, nhấn chuột vào liên kết cạnh biểu tượng Install trong phần mô tả và thực hiện các bước theo hướng dẫn để hoàn tất quá trình cài đặt. Tuy nhiên, xin lưu ý rằng các tiện ích bổ sung này chỉ có tác dụng sau khi bạn khởi động lại Firefox.

Từ đây, trên giao diện trình duyệt Firefox sẽ có thêm thanh công cụ mới. Tiếp đến, bạn nhấn vào nút Add và chọn Standard. Trong hộp thoại Proxy Info, bạn hãy đặt một cái tên cho cấu hình này (ví dụ như Tor) và điền vào giá trị localhost và 8118 lần lượt cho tất cả thông số Proxy và Port. Sau đó đóng tất cả hộp thoại và quay lại giao diện Firefox. Để yêu cầu Firefox sử dụng Tor trong quá trình duyệt web, bạn hãy chọn cấu hình vừa thiết tập từ trình dơn thả xuống ở phía trái của thanh công cụ và cuối cùng nhấn Apply.

Hồng Vy
Tài liệu tham khảo: PC World Mỹ;
Kinh nghiệm tìm và diệt virus máy tính bằng ... tay không

VÕ NGUYỄN ĐÌNH NGUYÊN (Đà Nẵng)

Tùy theo “nguyên tắc lây lan”, người ta thường chia virus làm ba loại: B (boot virus) lây lan vào các đoạn mã khởi động của đĩa cứng, F (file virus) lây lan vào các tập tin thực thi (có phần mở rộng là COM hoặc EXE), và M (macro virus) lây lan vào tập tin ứng dụng văn phòng (như Microsoft Word, Microsoft Excel...). Ngày nay người ta ít thấy các loại B hoặc F, thay vào đó là các loại sâu trình (worm) có cơ chế lây lan khác với B-virus và F-virus truyền thống. Đầu tiên, chúng lẻn vào máy dưới dạng các tập tin thực thi. Khi được kích hoạt, chúng đăng ký vào Registry của Windows để có thể tiếp tục hoạt động trong những lần khởi động máy tính tiếp theo. Để tìm và diệt virus máy tính bằng... tay không, bạn có thể làm theo từng bước sau đây:

1. Diệt các loại B-virus:

Để diệt B-virus trên đĩa cứng, cần làm sạch các mẫu tin khởi động là MBR (Master Boot Record) và DBR (DOS Boot Record). Việc đầu tiên là khởi động máy tính bằng đĩa mềm cứu hộ (Rescue Boot Disk) sạch. Sau đó thực hiện các bước tiếp theo:

- Làm sạch MBR: Tại dấu nhắc của DOS, gõ lệnh FDISK /MBR (có một khoảng trắng trước dấu /). Lệnh này không làm thay đổi cấu trúc phân vùng của đĩa cứng, nó chỉ ghi lại đoạn mã chuẩn của MBR. Sau khi gõ xong lệnh này, bạn có thể an tâm không còn virus nào trên MBR đĩa cứng.

Lưu ý: Đối với các ổ đĩa có sử dụng trình điều khiển thiết bị như Ontrack hoặc LILO driver thì không nên sử dụng lệnh FDISK /MBR.

- Làm sạch DBR: Tại dấu nhắc của DOS, chuyển sang ổ đĩa mềm (Asmilie và gõ lệnh SYS C:

Lưu ý: Lệnh này chỉ áp dụng được cho các ổ đĩa FAT/FAT32.

2. Diệt các loại virus macro:

Việc phát hiện các loại virus macro rất đơn giản, vì các chương trình như Microsoft Word hoặc Excel đã hỗ trợ tính năng này. Bạn chỉ cần bật tính năng đó lên là được. Cách làm có thể khác nhau đối với từng phiên bản của bộ Microsoft Office. Đối với Microsoft Word 2000 hoặc Excel 2000, chọn menu Tools -> Macro -> Security, trong thẻ Security level chọn High hoặc Medium. Khi bạn đã bật tính năng này lên, nếu tập tin được mở có chứa macro, chương trình sẽ hiển thị hộp thoại cảnh báo và người dùng có thể chọn lựa cho phép macro hoạt động hay không. Nếu bạn không chắc tài liệu đó là an toàn thì không nên kích hoạt nó. Sau đó, có thể vào menu Tools -> Macro -> Macros, chọn macro nghi ngờ, bấm nút Delete để xóa. Thậm chí, bạn có thể vào Tools -> Macro -> Visual Basic Editor để xem hoặc xóa mã nguồn của nó.

Lưu ý: Một số macro có khả năng che giấu tên/mã lệnh của nó để tránh bị phát hiện. Tuy nhiên, virus macro không thể vô hiệu chức năng cảnh báo virus của Microsoft Office trước khi được kích hoạt.

3. Diệt các loại sâu (worm):

Như đã nói ở trên, các loại virus bây giờ đa phần đều tự tạo cho mình một khóa trong registry để hoạt động cùng với sự khởi động của máy tính. Để biết có virus đang chạy trong Windows hay không, trong Windows 9x/ME ta nhấn tổ hợp phím Ctrl+Alt+Del để xuất hiện hộp thoại Task List, danh sách các chương trình đang chạy sẽ hiển thị trong đó. Trong Windows NT/2K/XP làm tương tự, chọn thẻ Process. Nếu bạn là người thường xuyên quan tâm và để ý đến các chương trình chạy trong máy tính của mình, bạn sẽ dễ dàng phát hiện khi có một chương trình lạ xuất hiện. Chọn End Task hoặc End Process để dừng chương trình đó, sau đó chạy MSCONFIG.EXE để xem các chương trình nào được chạy lúc máy khởi động. Trong MSCONFIG, bạn có thể cấm không cho chương trình đó chạy nữa. Bạn có thể xóa tập tin của nó đi, hoặc để an toàn hơn, bạn có thể di chuyển nó sang một thư mục khác. Nếu máy tính của bạn vẫn hoạt động bình thường sau đó, bạn có thể xóa nó đi vĩnh viễn.

Tuy nhiên, dùng Task List và MSCONFIG trong Windows 98 không phải lúc nào cũng thành công. Bản thân tôi đã từng gặp phải nhiều con virus “thông minh” (hay chính xác hơn là “xảo quyệt”) đến mức nó tự ẩn đi trong Task List và cả trong MSCONFIG. Khi đó, nếu bạn nhấn Ctrl+Alt+Del hoặc mở MSCONFIG để xem thì chẳng phát hiện điều gì bất thường cả. Để biết chính xác có những chương trình nào đang chạy trong Windows 9x/ME, bạn chạy chương trình System Information (có trong menu Start -> Programs -> Accessories -> System Tools), chọn Software Environment -> Running Task. Tất cả các chương trình đang chạy đều được liệt kê ở đây. Ngoài ra, đối với chương trình tự ẩn luôn khóa khởi động của mình trong MSCONFIG, bạn phải trực tiếp mở Registry (bằng lệnh REGEDIT), chuyển đến khóa:

“HKEY-LOCAL-MACHINE\SOFTWARE\ Microsoft\Windows\CurrentVersion\Run”

hoặc

“HKEY-CURRENT-USER\Software\ Microsoft\Windows\CurrentVersion \Run”

tìm các khóa của các chương trình nghi ngờ và xóa đi. Để cho an toàn, bạn có thể vào menu File -> Export trong REGEDIT để lưu trữ nội dung của các khóa Registry trên trước khi thay đổi nó.

Lưu ý: Các công việc trên đây đều ít nhiều liên quan đến Registry và các tập tin của hệ thống, nên bạn phải cẩn thận khi làm, tránh trường hợp hệ thống bị ảnh hưởng do sự nhầm lẫn vô tình. Luôn luôn sao lưu trước khi thay đổi bất cứ điều gì là một ý tưởng tốt. Hy vọng các bạn sẽ tự tin và thành công.

LỜI BÀN CỦA “HIỆP SĨ CHỐNG VIRUS” TRƯƠNG MINH NHẬT QUANG:

Virus máy tính có rất nhiều cách thức lây nhiễm, phá hoại với nhiều thủ đoạn tinh vi xảo quyệt. Hiện nay trên thế giới chưa tìm ra giải pháp ngăn chặn triệt để tình trạng lây lan của virus trong cộng đồng người sử dụng máy tính. Để phòng chống virus, bạn cần sử dụng các công cụ anti-virus cũng như trang bị một số kiến thức để tự bảo vệ máy tính khỏi sự tấn công của virus. Bài viết “Kinh nghiệm diệt virus bằng tay không” của bạn Võ Nguyễn Đình Nguyên minh họa cho công tác tự phòng vệ máy tính. Tuy nhiên, các bạn nên sử dụng cả hai phương pháp: chọn sử dụng ít nhất một công cụ anti-virus canh phòng (cho chạy thường trú 24/24), kết hợp với kinh nghiệm bản thân, máy tính của bạn sẽ an toàn hơn.

[theo echip ] smilie


[size=+3]Windows, mỗi lần khởi động với hình nền và nhạc khác nhau[/size]
TRẦN TRỌNG THANH (Tân Bình, TPHCM)

Bạn là người làm việc thường xuyên với máy tính? Bạn là người luôn thích sự mới mẻ? Có khi nào bạn cảm thấy nhàm chán với cái hình nền trên desktop (wallpaper) cùng nhạc nền khởi động mặc định của Windows? Bạn muốn thay đổi chúng mỗi khi khởi động hay thậm chí sau một khoảng thời gian nào đó? Điều này có thể thực hiện được bằng cách cài đặt thêm phần mềm tiện ích bên ngoài. Tuy nhiên, tôi sẽ tặng bạn một “bí kíp” để thực hiện được yêu cầu thay đổi nhạc khởi động và hình nền (hoặc chỉ một trong hai) mỗi khi khởi động Windows mà không cần phải cài đặt thêm bất cứ phần mềm nào. Tôi đã thử và thành công đối với Windows Me và Windows XP. Các hướng dẫn trong bài này chủ yếu thực hiện cho Win XP.

Ý tưởng của thủ thuật là sử dụng một tập tin batch (.bat) chạy tự động mỗi khi khởi động Windows. Tập tin batch chứa một tập các dòng lệnh (theo cú pháp của MS-DOS) sẽ thực hiện việc đổi tên danh sách các hình nền và nhạc khởi động một cách tuần hoàn. Theo cách đó, bạn sẽ khởi động lần lượt xoay vòng với các tập tin trong danh sách. Có thể bạn còn cảm thấy mơ hồ với giải thích sơ lược trên, nhưng bạn sẽ hiểu dần khi bắt tay vào thực hiện thủ thuật này:




Bước 1: Chuẩn bị một số hình và nhạc (số lượng tùy ý và không cần đồng đều hai loại).

Một điều cần lưu ý là các tập tin nhạc phải theo chuẩn không nén wav. Và vì được nạp vào bộ nhớ trong khi khởi động nên kích thước của nó không nên quá lớn, như thế sẽ làm chậm quá trình khởi động, tối đa nên đặt dưới 3MB (thời lượng khoảng dưới một phút với chất lượng trung bình). Nếu tập tin nhạc do bạn tự biên tập (thu qua micro hoặc trích từ những bản nhạc), bạn có thể giảm chất lượng của tập tin nhạc xuống ở mức chấp nhận được để giảm kích thước tập tin. Để thực hiện điều này, bạn hãy dùng chương trình Sound Recorder có sẵn của Windows (có thể tìm thấy trong Start -> Programs -> Accessories -> Entertainment) mở tập tin nhạc -> vào menu File -> Properties, bạn có thể xem thông tin về định dạng của tập tin nhạc ở mục Audio Format. Theo kinh nghiệm của tôi, bạn chỉ cần chất lượng ở “22,050 kHz, 16 Bit, Stereo” là đủ. Để chuyển về định dạng này, bạn nhấp vào Convert Now -> ở danh sách Format, chọn PCM -> ở danh sách Attributes, chọn định dạng cần chuyển (bạn còn có thể giảm một nửa kích thước nếu chấp nhận chuyển xuống Mono).

Về hình nền, bạn cần chuẩn bị các ảnh có tỉ lệ kích thước Ngang x Cao (Width x Height) là 4 x 3 và từ 640x480 pixel trở lên. Có thể dùng các tập tin ở định dạng nén như .jpg, .gif nhưng tốt nhất vẫn là chuẩn không nén .bmp. Bạn chép tất cả các tập tin vào chung một thư mục cho mỗi loại. Để làm ví dụ, tôi sẽ tạo cây thư mục như sau: “C:\khoidong\nhac” cho nhạc nền và “C:\khoidong\hinh” cho hình nền. Đặt lại tên cho các tập tin theo số thứ tự. Tôi đặt tên các bức hình là H1.bmp, H2.bmp, H3.bmp... và các đoạn nhạc là B1.wav, B2.wav, B3.wav...

Bước 2: Cài đặt cho hình nền và nhạc khởi động là tập tin đầu tiên trong mỗi danh sách

Để cài đặt hình nền, Nhấp chuột phải lên hình nền ở Desktop -> Properties -> thẻ Desktop (hay Background nếu là Windows Me) -> nút Browse -> tìm đến tập tin đầu tiên trong danh sách ảnh nền của bạn (ví dụ này sẽ là C:\khoidong\hinh\H1.bmp) -> OK -> OK.

Để cài đặt nhạc khởi động Control Panel -> Sound, Speech, and Audio Devices -> Sound and Audio Devices (đối với Windows Me thì bạn vào Control Panel -> Sounds and Multimedia) -> thẻ Sounds -> trong danh sách Program Events (hay Sound Events – Windows Me) chọn Start Windows -> nút Browse, tìm đến tập tin đầu trong danh sách nhạc nền (trong ví dụ là C:\khoidong\hinh\B1.wav) -> Save as -> đặt một tên mới (như vậy sau này bạn có thể nhanh chóng chuyển đổi giữa cài đặt ban đầu với cài đặt mới này thông qua việc chọn lại Sound Scheme) -> OK -> OK.

Bước 3: Tạo tập tin batch bằng chương trình soạn thảo Notepad.

Gõ vào những câu lệnh sau, nhớ kết thúc mỗi dòng bằng Enter (giả sử ta có ba hình và ba đoạn nhạc).

ĐOẠN MÃ

Ren c:\khoidong\hinh\H1.bmp

temp.bmp

Ren c:\khoidong\hinh\H2.bmp

H1.bmp

Ren c:\khoidong\hinh\H3.bmp

H2.bmp

Ren c:\khoidong\nhac\B1.wav

temp.wav

Ren c:\khoidong\nhac\B2.wav

B1.wav

Ren c:\khoidong\nhac\B3.wav

B2.wav

Exit

Lưu tập tin vào thư mục tùy ý (có thể là c:\khoidong\) nhưng với tên là startup.bat

Bước 4: Để chạy nó mỗi khi khởi động, bạn cần tạo một shortcut vào trong thư mục Startup. Bạn hãy chạy Windows Explorer -> tìm đến thư mục chứa tập tin batch vừa mới tạo -> vào menu Edit -> Copy (Ctrl+C) nhấp vào menu Start -> All Programs -> nhấp chuột phải vào mục Startup rồi chọn Open -> trong cửa sổ của thư mục Startup, bạn vào menu Edit -> Paste Shortcut -> nhấp chuột phải vào shortcut vừa tạo, chọn Properties -> thẻ General, đặt lại cho shortcut một cái tên “gợi nhớ” chẳng hạn như “Thay doi Startup” -> thẻ Shortcut, ở mục Run chọn Minimized (như vậy cửa sổ chương trình sẽ không bật ra làm phiền bạn mỗi khi khởi động). Nếu bạn dùng Windows Me/9x thì cần phải đánh dấu thêm mục Close on Exit. Sau đó nhấn OK.

Nếu bạn đã hiểu cách thức thực hiện thủ thuật này thì bạn sẽ thấy rằng Windows khởi động xong rồi mới thực hiện đổi tên tập tin trong danh sách cho lần khởi động sau (các chương trình trong thư mục Startup được chạy sau cùng trong quá trình khởi động). Do đó, bây giờ bạn hãy nhấp đúp vào shortcut “Thay doi Startup” để chạy nó lần đầu tiên. Nếu máy bạn thực sự nhanh thì hầu như bạn không có cảm giác tập tin batch đã được chạy. Bây giờ mỗi khi khởi động, bạn sẽ thấy một hình nền khác cũng như một đoạn nhạc khác tạo cho bạn một cảm giác mới lạ và thoải mái khi làm việc với chiếc máy tính của mình.

Mozilla FireFox 2.0 Beta 1
Trình duyệt Web thế hệ tiếp theo


Nhằm bắt kịp phiên bản Internet Explorer 7 đầy “màu mè” của đại gia Microsoft, những người sáng tạo ra FireFox lại có tham vọng tiếp tục “lăng-xê” đứa con của mình bằng phiên bản 2.0 không cầu kỳ. Tuy nhiên, có lẽ chính vì vẻ ngoài không bóng bẩy ấy của FireFox 2.0 mà phiên bản mới này không tạo được sự biến đổi thật sự trong những người đa sử dụng đối với hai tính năng mới: kiểm tra chính tả khi soạn thảo văn bản trong trình duyệt và chống lừa đảo trên mạng.Đối với giao diện, FireFox hầu như không thật sự quan tâm mà chỉ thay đổi rất nhỏ bằng việc đưa nút đóng thẻ (tab) vào ngay trong vùng tên thẻ thay vì đặt bên góc phải của trang, tương tự như trình duyệt Opera. Tính năng này có mục đích giúp người sử dụng đóng đúng thẻ đang mở nhưng lại làm cho thao tác của bạn chậm đi khi cần đóng nhiều thẻ vì phải di chuyển chuột đến đúng nút đóng của thẻ.

Về vấn đề bảo mật thì không cần phải bàn thêm vì FireFox luôn là trình duyệt an toàn nhất và phiên bản 2.0 cũng không phải ngoại lệ, hầu hết tất cả lỗi về bảo mật đã được đưa vào trong phiên bản mới này.Riêng phần hai tính năng mới lại không có nhiều nổi bật vì FireFox không cho sửa đổi hay cấu hình lại. Tính năng kiểm tra chính tả được xem là đắc giá nhất trong FireFox, giúp cho văn bản soạn thảo ngay trong trình duyệt sẽ không mắc nhiều lỗi, tuy nhiên không hỗ trợ tiếng Việt; mặc định là kiểm tra chính tả tiếng Anh. Còn về phần tính năng chống lừa đảo trên mạng thì hoạt động khá đơn giản, FireFox sẽ cảnh báo nếu trang Web bạn đang giao dịch có tên trong cơ sở dữ liệu những địa chỉ lừa đảo của nó.

Nếu thích bạn có thể tải Mozilla FireFox 2.0 Beta 1 tại http://ftp.mozilla.org/pub/mozilla.o....installer.exe (dung lượng 5,4MB).
(theo echip.com.vn)
anh ơi box lập trinh không gửi đươc bài smilie smilie smilie smilie smilie
công nhân mấy cái này đẹp thật!
 

Powered by JForum - Extended by HVAOnline
 hvaonline.net  |  hvaforum.net  |  hvazone.net  |  hvanews.net  |  vnhacker.org
1999 - 2013 © v2012|0504|218|